Alessandro “Sandro” Mazzola (sinh ngày 8 tháng 11 năm 1942) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý, từng chơi ở vị trí tiền vệ tấn công hoặc tiền đạo cho Internazionale và đội tuyển quốc gia Ý. Anh hiện đang làm nhà phân tích và bình luận bóng đá trên đài truyền hình quốc gia Ý RAI. Hãy cùng tìm hiểu về Sandro Mazzola là ai trong bài viết được tham khảo từ rakhoi sau đây nhé.
Tiểu sử Alessandro Mazzola
Sandro Mazzola sinh ra ở Turin vài tuần sau khi cha anh, Valentino Mazzola, gia nhập Torino từ Venezia. Em trai của anh, Ferruccio, người được đặt theo tên của chủ tịch câu lạc bộ Torino, chào đời hai năm sau đó. Cha mẹ họ ly hôn vào năm 1946 nhưng cha họ giành được quyền nuôi Sandro, cậu bé mới 6 tuổi khi cha cậu qua đời trong thảm họa hàng không Superga.
Anh ấy được nhiều người coi là một trong những cầu thủ bóng đá Ý vĩ đại nhất mọi thời đại và là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất trong thế hệ của anh ấy, nhờ tốc độ, tốc độ làm việc, sự sáng tạo, kỹ năng kỹ thuật và con mắt săn bàn; ông đứng thứ hai trong Quả bóng vàng năm 1971. Trải qua toàn bộ sự nghiệp 17 mùa giải của mình với Inter, anh ấy có vinh dự là cầu thủ của một câu lạc bộ. Với câu lạc bộ, ông đã giành được bốn danh hiệu Serie A (1963, 1965, 1966 và 1971), hai Cúp C1 châu Âu (1964 và 1965) và hai Cúp Liên lục địa (1964 và 1965), đồng thời giành được giải Vua phá lưới Serie A trong mùa giải 1964– 65, trong đó anh cũng lọt vào trận chung kết Coppa Italia, suýt chút nữa giành được cú ăn ba cùng câu lạc bộ.
Với đội tuyển quốc gia Ý, Mazzola đã giành chức vô địch châu Âu UEFA năm 1968, được ghi tên vào Đội hình của giải đấu và lọt vào trận chung kết FIFA World Cup 1970; ông cũng tham gia FIFA World Cup 1966 và 1974 cùng Ý. Anh là con trai của cầu thủ bóng đá người Ý Valentino Mazzola, cầu thủ của Grande Torino đã chết trong thảm họa hàng không Superga. Em trai của Sandro Mazzola, Ferruccio Mazzola, cũng là một cầu thủ bóng đá, qua đời năm 2013.
Sự nghiệp thi đấu của Sandro Mazzola
Sự nghiệp câu lạc bộ
Mặc dù cha của họ là Valentino đã chơi cho Torino FC, nhưng Sandro Mazzola và anh trai Ferruccio lại ký hợp đồng với Internazionale. Không giống như em trai mình, Sandro Mazzola đã dành toàn bộ sự nghiệp của mình cho Inter, ghi 116 bàn thắng ở Serie A cho câu lạc bộ sau 417 lần ra sân ở giải VĐQG. Anh có trận ra mắt Serie A dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên Helenio Herrera trong mùa giải 1960–61, cùng với nhiều cầu thủ trẻ khác, trước đối thủ Juventus vào ngày 10 tháng 6 năm 1961, ghi bàn thắng duy nhất cho đội của anh từ một quả phạt đền trong trận thua 9–1; đây là lần xuất hiện duy nhất của anh ấy trong mùa giải. Herrera đã gia nhập Inter một năm trước đó, từ đội bóng Tây Ban Nha Barcelona, cùng với tiền vệ trung tướng Luis Suárez, người đóng vai trò là cầu thủ kiến tạo lối chơi chính của Inter trong những năm 1960.
Đội bóng Inter của Herrera trong giai đoạn đó còn có Tarcisio Burgnich và Giacinto Facchetti ở vị trí hậu vệ cánh, Jair người Brazil là cầu thủ chạy cánh, Mario Corso là tiền vệ trái, Armando Picchi là hậu vệ quét và Mazzola, người cuối cùng chơi ở vị trí tấn công trong-phải dưới thời Herrera. Cùng nhau, họ sẽ biến câu lạc bộ thành đội bóng xuất sắc nhất ở Ý, Châu Âu và thế giới trong suốt những năm 60, được biết đến với cái tên Grande Inter. Họ nổi tiếng với chiến thuật phòng ngự khét tiếng “catenaccio” và khả năng ghi bàn từ những pha phản công nhanh và bất ngờ. Mazzola đã giành được bốn chức vô địch Serie A cùng Inter, trong đó có hai danh hiệu liên tiếp vào năm 1965 và 1966, kết thúc với tư cách là vua phá lưới của giải đấu trong mùa giải trước, với 17 bàn thắng, và suýt chút nữa giành được cú ăn ba trong cùng năm.
Năm 1964, Mazzola ghi hai bàn giúp Inter đánh bại Real Madrid trong trận chung kết Cúp C1 châu Âu 1964 để giúp câu lạc bộ cạnh tranh với đối thủ xuyên thành phố Milan ở mùa giải trước; anh ấy đã kết thúc giải đấu với tư cách là vua phá lưới với bảy bàn thắng. Inter lại bảo vệ danh hiệu châu Âu của họ vào mùa giải tiếp theo bằng cách đánh bại Benfica trong trận Chung kết. Inter bị loại ở bán kết Cúp C1 châu Âu trong mùa giải 1965–66 bởi nhà vô địch cuối cùng là Real Madrid, trong khi ở mùa giải 1966–67, Inter lọt vào trận chung kết Cúp C1 châu Âu lần thứ ba, nhưng thua Celtic 2-1 dù Mazzola ghi bàn. bàn thắng mở tỷ số trận đấu từ chấm phạt đền ở phút thứ bảy. Mazzola cũng đã giành được hai Cúp Liên lục địa liên tiếp với Inter vào các năm 1964 và 1965, đồng thời lọt vào trận chung kết Coppa Italia 1964–65, cũng như cán đích ở vị trí thứ ba tại Coppa Italia trong mùa giải 1967–68; anh ấy đã lọt vào một trận chung kết Cúp C1 châu Âu khác với Inter vào năm 1972, chỉ để thua 2–0 trước Ajax.
Năm 1971, sau chức vô địch Serie A cuối cùng và màn trình diễn ở châu Âu, ông đứng thứ hai trong danh sách Quả bóng vàng, sau Johan Cruyff. Đây là lần gần nhất anh ấy giành được giải thưởng và là lần đầu tiên anh ấy lọt vào danh sách rút gọn vào vòng chung kết.
Những người thích xem bong da truc tuyen cho biết Mazzola từ giã sự nghiệp bóng đá chuyên nghiệp vào mùa hè năm 1977, giữ chức đội trưởng của Inter từ năm 1970 cho đến khi giải nghệ. Đến cuối sự nghiệp, ông đã giành được 4 chức vô địch Serie A (1963, 1965, 1966 và 1971), 2 Cúp C1 châu Âu (1964 và 1965), 2 Cúp Liên lục địa (1964 và 1965), 1 chức vô địch châu Âu (1968) và 1 lần vô địch châu Âu. Vua phá lưới trong mùa giải Serie A 1964–65.
Sự nghiệp quốc tế
Mazzola đã chơi 70 lần cho Ý từ năm 1963 đến năm 1974, ghi được 22 bàn thắng. Trận ra mắt đội tuyển quốc gia của anh ấy là trận gặp Brazil vào ngày 12 tháng 5 năm 1963, khi anh ấy mới 20 tuổi, và anh ấy đã đánh dấu dịp này bằng cách ghi một bàn thắng từ một quả phạt đền. Mazzola sau đó chơi cho đất nước của mình tại FIFA World Cup 1966 dưới sự dẫn dắt của Edmondo Fabbri, xuất hiện trong cả ba trận đấu vòng bảng của Ý và ghi bàn trong trận mở màn của quốc gia anh ấy, chiến thắng 2–0 trước Chile, khi Ý bị loại ở vòng đầu tiên; sau đó anh ấy đã tham gia hai phiên bản tiếp theo của giải đấu với Ý. Tuy nhiên, thành tích lớn nhất của ông với đội tuyển quốc gia đến vào năm 1968, khi Ý giành chức vô địch châu Âu năm 1968 trên sân nhà dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên Ferruccio Valcareggi, và Mazzola được vinh danh là thành viên của Đội giải đấu vì màn trình diễn của anh ấy.
Tuy nhiên, hai năm sau, mặc dù Ý đến World Cup ở Mexico với tư cách đương kim vô địch châu Âu, nhưng trong đội đã có nhiều xáo trộn, khi huấn luyện viên đội tuyển quốc gia Ý, Valcareggi, tin rằng Mazzola không thể chơi cùng với cầu thủ ngôi sao sáng tạo người Ý khác. Gianni Rivera, người chơi ở vị trí tương tự cho câu lạc bộ đối thủ của Mazzola là Milan, vì điều đó sẽ bù đắp sự cân bằng trong đội; Do đó, Mazzola đã được chọn đá chính trong cả ba trận đấu ở vòng đầu tiên của Ý do thể lực và tốc độ làm việc vượt trội. Vì người Ý gặp khó khăn trong việc ghi bàn trong vòng bảng và Mazzola phải vật lộn để lấy lại thể lực thi đấu sau khi bị cúm dạ dày, Valcareggi đã nghĩ ra một giải pháp gây tranh cãi cho vòng hai của giải đấu, mà anh ấy gọi là “staffetta” (tiếp sức) , để chơi cả hai người chơi.
Mazzola, người nhanh hơn, khỏe hơn, khỏe hơn, dễ ghi bàn hơn và có trí thông minh chiến thuật cũng như hiệu suất làm việc vượt trội so với cả hai, sẽ xuất phát trong hiệp một, trong khi Rivera sẽ vào sân ở hiệp một, khi các cầu thủ đối phương bắt đầu mệt mỏi. Điều này sẽ cho phép cầu thủ sáng tạo hơn Rivera có nhiều thời gian cầm bóng hơn để điều chỉnh nhịp độ trận đấu của đội. Với chiến thuật này, Ý đã đánh bại chủ nhà Mexico ở tứ kết, và sau đó là Tây Đức trong hiệp phụ ở bán kết để lọt vào trận chung kết World Cup lần đầu tiên sau 32 năm, trong đó Ý đối đầu với Brazil, do Pelé dẫn đầu. Trận đấu được coi là cuộc chiến giữa bóng đá tấn công và phòng ngự, nhưng vào ngày thi đấu, Valcareggi đã từ bỏ chính sách nhân viên của mình trong hiệp một, với tỷ số hòa 1-1 và quyết định chỉ sử dụng Mazzola cho đến cuối trận do tình trạng thể chất bấp bênh của một số cầu thủ xuất phát của anh ấy sau chiến thắng đáng kể ở trận bán kết của Ý.
Rivera cuối cùng cũng bước vào trận đấu khi chỉ còn sáu phút, thay thế Roberto Boninsegna, khi Brazil dẫn trước 3–1. Hai trong số những ngôi sao kỹ thuật lớn nhất của Ý cuối cùng đã đoàn kết với nhau trên sân, nơi mà nhiều người tin rằng lẽ ra họ phải có mặt từ lâu, nhưng đã quá muộn; Brazil đã thắng trận 4–1 để giành chức vô địch World Cup, lần thứ ba chung cuộc của họ. Bốn năm sau, Valcareggi cuối cùng đã sử dụng hai cầu thủ này cùng nhau tại World Cup 1974, nhưng đội bóng già nua của Ý đã thi đấu kém hiệu quả và bị loại ngay từ vòng đầu tiên của giải đấu.
Sự nghiệp sau thi đấu
Sau khi giã từ sự nghiệp bóng đá, Mazzola giữ vị trí điều hành tại Inter, từ năm 1977 đến năm 1984, sau đó là Genoa. Từ năm 1995 đến 1999, ông trở lại làm việc tại Inter với vai trò giám đốc thể thao, trước khi bị thay thế bởi cựu cầu thủ và đồng đội Gabriele Oriali. Từ năm 2000 đến 2003, ông giữ chức giám đốc thể thao của Torino.
Mazzola cũng từng làm bình luận viên cho Rai Sport. Ông giữ kỷ lục độc nhất là bình luận viên trận chung kết World Cup 1982 cùng với Luigi Colombo cho Telemontecarlo (trận chung kết đầu tiên được phát sóng trên truyền hình thương mại) và trận chung kết World Cup 2006 cùng với Marco Civoli cho RAI, cả hai đều thuộc về Ý.
Phong cách chơi bóng của Mazzola
Mazzola được nhiều người coi là một trong những cầu thủ bóng đá Ý vĩ đại nhất mọi thời đại và là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất trong thế hệ của anh ấy. Là một cầu thủ nhanh nhẹn, tài năng, khéo léo, năng nổ, thông minh về mặt chiến thuật và linh hoạt, anh ấy có thể chơi ở một số vị trí nâng cao. Được biết đến với thể lực, tốc độ phòng ngự và khả năng nhào lộn trên không, ban đầu anh chơi ở vị trí tiền vệ trung tâm thiên về tấn công khi còn trẻ, được gọi là vai trò “mezzala” trong tiếng Ý, nhưng sau đó chủ yếu được sử dụng ở vị trí tiền vệ trung tâm. ngay dưới thời Herrera, một vai trò mà anh ấy đã trở nên nổi tiếng, khẳng định mình là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất thế giới ở vị trí của anh ấy; anh ấy cũng được sử dụng ở vị trí tiền đạo trung tâm, tiền vệ cánh, tiền đạo chủ lực hoặc thậm chí đôi khi là tiền đạo hỗ trợ.
Trong sự nghiệp sau này, khi anh ấy mất đi một số tốc độ và khả năng di chuyển, anh ấy thường được bố trí ở vai trò sáng tạo hơn như một tiền vệ tấn công, được hỗ trợ bởi phạm vi chuyền bóng, tầm nhìn, kỹ thuật, kỹ năng đi bóng và kiểm soát chặt chẽ; anh ấy cũng có khả năng chơi ở vị trí tiền vệ lùi sâu hơn, như một tiền vệ kiến thiết lối chơi.
Mặc dù đóng vai trò rút lui và sáng tạo hơn trong phần lớn sự nghiệp của mình, Mazzola cũng được biết đến là một tay săn bàn giỏi ở vị trí tiền đạo, nhờ con mắt săn bàn cũng như khả năng tấn công mạnh mẽ và chính xác từ cả trong và ngoài vòng cấm, cũng như khả năng căn thời gian trong các pha tấn công và đón đường chuyền của đồng đội, điều này đã giúp anh giành được danh hiệu Vua phá lưới Serie A năm 1965.
Tuy nhiên, Mazzola được đánh giá cao nhất trong thời kỳ đỉnh cao nhờ tốc độ, khả năng tăng tốc và sức chịu đựng vượt trội, cũng như khả năng rê bóng, sự nhanh nhẹn, kỹ thuật kỹ thuật và khả năng giữ thăng bằng, đặc biệt là khi chạy hết tốc lực khi đang sở hữu bóng; Tốc độ của anh ấy, kết hợp với khả năng kiểm soát bóng tuyệt vời và khả năng kỹ thuật giúp anh ấy thường xuyên đánh bại các hậu vệ trong các trận đấu, cả trong các tình huống một đối một hoặc khi thực hiện các pha chạy chỗ riêng lẻ. Ngoài khả năng của một cầu thủ bóng đá, Mazzola còn nổi bật nhờ tính cách, bản lĩnh, trí lực, sự quyết tâm và khả năng lãnh đạo.
Danh hiệu và thành tích
Inter Milan
- Serie A (4) : 1962–63, 1964–65, 1965–66, 1970–71
- Cúp C1 Châu Âu (2): 1963–64, 1964–65
- Cúp Liên lục địa (2): 1964, 1965
Nước Ý
- Á quân Giải vô địch bóng đá thế giới: 1970
- Giải vô địch châu Âu UEFA (1): 1968
Cá nhân
- Vua phá lưới Serie A: 1964–65 (17 bàn)
- Vua phá lưới Cúp C1 châu Âu: 1963–64 (cùng với Vladica Kovačević của Partizan và Ferenc Puskás của Real Madrid, với 7 bàn thắng)
- FIFA XI: 1967
- Đội vô địch giải đấu châu Âu của UEFA: 1968
- Quả bóng vàng (vị trí thứ 2): 1971
- Đại sảnh Danh vọng Bóng đá Ý: 2014
- Đại sảnh Danh vọng Inter Milan: 2022
Với bài viết về Sandro Mazzola là ai thể hiện tình yêu và sự tận tâm đặc biệt của ông đối với môn thể thao này, ông đã mở ra cánh cửa cho các cầu thủ trẻ và khiến bóng đá trở nên đa dạng và phong cách hơn.